-->

Ảnh hưởng của việc ứng dụng phân bón và khoáng chất dolomite lên sự sinh trưởng và năng suất của cây cao su trong giai đoạn khai thác. Phần 5

Kết quả : Tăng trưởng và năng suất cao su

Sau hai năm cải tạo đất, tất cả các nghiệm thức không có sự khác biệt đáng kể về sản lượng cao su khô, cũng như hàm lượng cao su khô (Bảng 2). Sự phản ứng với phân bón của cây lâu năm như cây cao su cần thời gian (Sopheaveasna và cộng sự, 2008). Tuy nhiên, sản lượng cao su khô sau khi cải tạo đất có xu hướng tăng lên từ đầu đến cuối năm, đặc biệt là khi áp dụng chỉ mỗi compost trái ngược với năng suất của nghiệm thức đối chứng (Bảng 2). Có thể sự gia tăng chu vi cao và hàm lượng P, Ca và Mg cao trong phân ủ tăng cường quá trình tổng hợp cao su. Ví dụ, thành phần P trong adenosine triphosphate là cần thiết cho tất cả các quá trình chuyển hóa cây trồng và Mg kích hoạt ATPase, và transferase (Jacob và cộng sự, 1989). Mg và Ca trong nhựa cao su trong nghiệm thức đối chứng (1.40g/kg và 48.38mg/kg) có thể làm tăng sự đông đặc của nhựa và tăng cường nhanh chóng sự ngừng chảy của dòng chảy nhựa, và chúng là chất ức chế các enzym khác nhau trong cytosol tế bào nhựa (d¢Auzac và Jacob, 1989).

Các kết quả nghiên cứu trước đây cũng cho thấy xu hướng của chu vi và năng suất cao su tăng lên sau khi áp dụng phân bón hóa học cùng với dolomite hoặc compost (Purkwiwat và cộng sự, 2003, Pothiwatthutham và cộng sự, 2003). Việc sử dụng phân chuồng cùng với rơm cỏ và 75% tỷ lệ phân hoá học đầy đủ (12-5-14) ở cây 8 năm tuổi và cây chưa khai thác tăng lên đáng kể so với những cây đối chứng. Trong khi bốn năm áp dụng trên cây đang giai đoạn khai thác không thể tìm thấy sự khác biệt đáng kể về sự gia tăng chu vi và năng suất (Noulsri và cộng sự, 1991). Việc sử dụng phân bón hữu cơ làm tăng hiệu quả phân bón hóa học hoặc thậm chí thay thế một phần phân hoá học, tuy nhiên, lợi ích kinh tế nên được xem xét.

Ảnh hưởng của việc ứng dụng phân bón và khoáng chất dolomite lên sự sinh trưởng và năng suất của cây cao su trong giai đoạn khai thác

Kết quả :  Tính chất hoá học của đất

Sau sáu tháng sử dụng dolomite, pH đất đã tăng lên rõ rệt (dữ liệu không được hiển thị). Tuy nhiên, độ pH đất giảm sau khi ngừng bón vôi. Sự suy giảm pH dần dần của đất axít nhiệt đới thường xảy ra sau khi ngừng bón vôi (Dharmakeerthi, 2012), đặc biệt là ở tỷ lệ bón vôi thấp (Edwards và cộng sự, 2009). Hai năm sử dụng compost làm cho độ pH đất cao hơn đáng kể so với nghiệm thức phân bón hoá học và nghiệm thức đối chứng do pH cao (7.68) của compost được sử dụng trong thí nghiệm này và có vẻ như các nhóm hydroxyl phenolic và carboxyl từ compost có vai trò quan trọng trong việc nâng cao độ pH của đất (Whalen và cộng sự, 2000). pH đất trong nghiệm thức phân bón hóa học có xu hướng giảm do sự hình thành H + từ quá trình nitrat hóa do urea được kết hợp với phân bón hỗn hợp.

Bảng 2. Cao su khô và hàm lượng cao su khô sau 2 năm cải tạo đất.

Nghiệm thức Tháng 6 năm 2012 Tháng 9 năm 2012 Tháng 11 năm 2012

Sản lượng cao su khô

(g/t/t)

DRC

(%)

Sản lượng cao su khô

(g/t/t)

DRC

(%)

Sản lượng cao su khô

(g/t/t)

DRC

(%)

Đối chứng 50.79 38.81 47.86 35.43 42.89 41.63
Ch.F 43.04 39.45 54.23 41.32 54.94 40.90
Ch.F+D 49.28 38.09 66.24 38.58 52.66 40.02
C 50.63 37.43 57.63 41.06 59.02 42.81
Ch+C 44.86 37.69 47.88 41.84 55.47 43.35
1/2Ch.F+C 44.54 38.23 43.56 42.50 43.59 41.48
1/2Ch.F+C+D 41.17 38.77 50.34 40.59 50.03 44.41
F-test ns ns ns ns ns ns
C.V.(%) 20.83 4.70 23.42 6.39 18.05 7.56

ns = Khác biệt không đáng kể về giá trị trung bình giữa các nghiệm thức (p> 0,05); g/t/t = gram/cây/lần khai thác.

111

Hình 1. Tính chất hoá học của đất sau 1 năm và 2 năm cải tạo đất.  1 năm sau khi cải tạo đất,  2 năm sau khi cải tạo đất.

Chất hữu cơ tăng lên rõ rệt sau hai năm sử dụng compost (Hình 1), trong khi các nghiệm thức phân hoá học có xu hướng giảm. Đó có thể là do các chất dinh dưỡng của cây trồng tăng lên do sử dụng phân bón hóa học, đặc biệt là N, làm tăng hoạt tính vi sinh vật bao gồm khoáng hoá cacbon hữu cơ (Chantigny và cộng sự, 1999). Tổng N trong một năm và hai năm cải tạo đất ở khoảng 1,03-1,07 và 0,97-1,07 g/kg, trong khi nghiệm thức đối chứng là 1,0 và 0,87 g/kg. P sẵn có tăng từ năm đầu tiên đến năm thứ hai sau khi sử dụng compost so với các nghiệm thức phân hoá học và đối chứng. Điều đó có thể là do compost được sử dụng trong thí nghiệm này có chứa một lượng tổng P hơi cao (2.6 g/kg) và nó dần dần giải phóng P vào đất. Tuy nhiên, sau 2 năm sử dụng phân bón, K trao đổi thấp hơn đáng kể so với các nghiệm thức phân hoá học.

Cả hai loại compost và dolomite đều làm tăng Ca và Mg trao đổi (Hình 1). Sau khi cải tạo đất, Ca và Mg trao đổi đạt mức tối ưu mà Kangpisadarn đề xuất (năm 2004) (> 60 và> 36 mg/kg), nhưng tổng N, P và K trao đổi vẫn ở mức thấp. Các khoảng tối ưu là 1,10-2,50 g/kg đối với tổng N, 11,0-30,0 mg/kg đối với P sẵn có và> 40,0 mg/kg đối với K trao đổi.

Sau một năm cải tạo đất, Fe, Mn, Zn và Fe trao đổi được trong khoảng 62,49-82,63, 3,92-8,40, 0,145-0,391 và 0,941-1,496 mg/kg. Sau hai năm cải tạo đất, nồng độ của chúng là 59,22-65,71,80, 5,78-46,46, 0,193-0,479, và 0,375-0,556 mg/kg. Không có sự khác biệt đáng kể trong các giá trị giữa các nghiệm thức. 

 

 

Issariyaporn Damrongrak, Jumpen Onthong và Chairatna Nilnond

 

745337